- Published on
Chiến tranh lạnh lần thứ hai?
- Author
- Nom
- Ngoc Duong van
Tác giả: Lý Xuân Hải
CHIẾN TRANH LẠNH LẦN THỨ HAI.
DUY TRÌ HỢP TÁC KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH PHÂN MẢNG ĐỊA CHÍNH TRỊ TOÀN CẦU
Tham luận của Gita Gopinath -Phó TGĐ điều hành thứ nhất Quỹ Tiền tệ Quốc tế- tại Đại hội Thế giới lần thứ XX của Hiệp hội Kinh tế Quốc tế 11/12/2023, Columbia.
(Thấy bài rất hay lại lúc đang phải nằm nhà rảnh rỗi nên dịch chia sẻ cùng bạn bè đọc cho vui).
GIỚI THIỆU
Chào buổi sáng!
Tôi thật vinh dự được phát biểu tại Đại hội Thế giới lần thứ XX của Hiệp hội Kinh tế Quốc tế (IEA - ND).
Chủ đề chính của Đại hội lần này là: “Chúng ta có đang ở điểm bước ngoặt không?”
Tôi cho là đã. Hơn thế nữa, tôi muốn đi xa hơn chủ đề của Đại hội này và đặt câu hỏi: “Có phải chăng chúng ta đang trên bờ vực của một cuộc Chiến tranh Lạnh lần thứ hai? Sử gia Niall Ferguson cho rằng chúng ta đã ở đó rồi. Nếu thế thì điều ấy có ý nghĩa gì đối với kinh tế toàn cầu? Và bằng cách nào chúng ta có thể duy trì được những lợi ích có được của thời kinh tế mở cửa trong một thế giới bị phân mảng?”.
Để trả lời những câu hỏi này, trước tiên chúng ta hãy nhìn lại lịch sử quan hệ thương mại quốc tế trong thế kỷ XX. Sau đó, chúng ta sẽ đánh giá những điểm tương đồng và khác biệt giữa Chiến tranh Lạnh xưa và nay. Tôi sẽ mô tả các dấu hiệu phân mảng mà chúng tôi chọn lọc thấy trong cơ sở dữ liệu thương mại và đầu tư từ trước đến nay. Đồng thời chúng ta sẽ xem xét những tổn thất kinh tế tiềm ẩn khi các rạn nứt trở nên sâu sắc hơn. Cuối cùng, tôi sẽ đề xuất ba nguyên tắc để bảo vệ hợp tác kinh tế trong một thế giới bị phân mảng nặng nề.
Không còn nghi ngờ rằng đại dịch, chiến tranh và căng thẳng gia tăng giữa hai cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Trung Quốc đã thay đổi luật chơi trong quan hệ kinh tế toàn cầu. Mỹ kêu gọi “chuyển sản xuất sang các nước thân hữu”, EU kêu gọi “giảm thiểu rủi ro” (ND: Giảm phụ thuộc vào Trung Quốc) và Trung Quốc kêu gọi “tự cung tự cấp” (ND: Giảm phụ thuộc Mỹ ngừa cấm vận). Lợi ích an ninh quốc gia đang định hình toàn diện mọi chính sách kinh tế trên quy mô toàn cầu.
Trong khi đó hệ thống (kinh tế) toàn cầu thì lại được xây dựng dựa trên nền tảng các quy tắc chứ không được thiết kế để giải quyết xung đột thương mại dựa trên nền tảng an ninh quốc gia. Kết quả là chúng ta đang thấy nhiều quốc gia đang ở trạng thái cạnh tranh chiến lược trong khi các quy tắc (cạnh tranh) không rõ ràng và không có cơ chế trọng tài hiệu quả.
Mô hình này mang lại lợi ích cho các quốc gia nhìn từ góc độ giảm thiểu rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng và tăng cường an ninh quốc gia. Nhưng nếu không quản lý đúng đắn quá trình này, tổn thất phát sinh có thể dễ dàng trở nên lớn hơn lợi ích nó đem lại và có khả năng đảo ngược những bước tiến đã giúp hàng tỷ người thoát khỏi đói nghèo trong gần ba thập kỷ của hòa bình, hội nhập và tăng trưởng vừa qua.
Với triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu ở mức yếu nhất trong nhiều thập kỷ - và với những tổn thương không tương xứng của đại dịch và chiến tranh làm chậm quá trình thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các nước giàu và nước nghèo - chúng ta hoàn toàn không cần một cuộc Chiến tranh Lạnh nữa - (H.1)
MỘT SỐ GÓC NHÌN LỊCH SỬ
Hãy bắt đầu bằng cách nhìn vào lịch sử. Đây không phải là lần đầu tiên toàn cầu hóa bị đe dọa và những quan ngại địa chính trị đã chia rẽ dòng vốn và thương mại toàn cầu - (H.2)
Thương mại quốc tế đã bùng nổ trong suốt thế kỷ 19 “kéo dài”, khoảng 125 năm, bắt đầu từ Cách mạng Pháp năm 1789. Thế chiến I đã khiến kỷ nguyên toàn cầu hóa hoàng kim đó kết thúc đột ngột khi thương mại thế giới sụp đổ xét về tỷ trọng trên GDP. Khó khăn kinh tế kéo dài sau chiến tranh đã mở đường cho sự trỗi dậy của các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc và độc tài, những người sau đó đẩy thế giới vào Thế chiến II. Sau Thế chiến II xuất hiện một thế giới lưỡng cực, bị chia cắt bởi ý thức hệ, thể chế chính trị và cấu trúc nền kinh tế, với hai siêu cường - Mỹ và Liên Xô. Ở giữa vị thế (cân bằng-ND) bấp bênh của họ là một loạt các nước không liên kết.
Nhưng giai đoạn “Chiến tranh Lạnh” này, từ cuối những năm 1940 đến cuối những năm 1980, không phải là thời kỳ phi toàn cầu hóa vì nó được đánh dấu bằng sự gia tăng tỷ lệ thương mại toàn cầu trên GDP do nhu cầu phục hồi kinh tế sau chiến tranh và các chính sách tự do hóa thương mại được nhiều nước thuộc khối phương Tây áp dụng. Tuy nhiên, đó lại là thời kỳ phân mảng khi các luồng thương mại và đầu tư bị ảnh hưởng nặng nề bởi những suy tính địa chính trị. Thương mại giữa các khối đối địch đã giảm từ khoảng 10-15% xuống dưới 5% thương mại toàn cầu trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Chiến tranh Lạnh kết thúc, giao dịch thương mại giữa các khối đối địch trước đây đã mở rộng nhanh chóng, đạt gần 1/4 thương mại toàn cầu trong thập kỷ tiếp theo. Việc Chiến tranh Lạnh kết thúc cũng trùng với thời kỳ siêu toàn cầu hóa những năm 1990s và 2000s được thúc đẩy bởi: đổi mới công nghệ, tự do hóa thương mại đơn phương và đa phương, cũng như những thay đổi về địa chính trị và thể chế. Tất cả những điều ấy kết hợp lại đã nâng mức độ hội nhập kinh tế toàn cầu lên độ cao chưa từng thấy trước đây.
Tuy nhiên, kể từ năm 2008, tốc độ tăng toàn cầu hóa đã chứng lại – còn gọi là quá trình cân bằng hóa chậm (Slowbalization) – tỷ trọng thương mại trên GDP ổn định do các lực thúc đẩy siêu toàn cầu hóa suy yếu dần một cách tự nhiên.
Đó là điều đưa chúng ta đến ngày nay. Trong 5 năm qua các mối đe dọa đối với tự do luân chuyển dòng vốn và hàng hóa đã gia tăng bởi rủi ro địa chính trị ngày càng gia tăng. Một số biện pháp được áp dụng, bao gồm thuế quan hoặc hạn chế xuất khẩu, trực tiếp nhắm tới hoạt động thương mại và đầu tư. Các biện pháp bên trong biên giới khác cũng ảnh hưởng gián tiếp đến dòng chuyển thương mại, chẳng hạn như chính sách bảo hộ-hỗ trợ tài khoá và tài chính cho một số lĩnh vực nội địa cụ thể và yêu cầu hàm lượng địa phương hoá (trong triển khai đầu tư- local content -ND) - (H.3).
Khoảng 3.000 biện pháp hạn chế thương mại đã được áp dụng vào năm ngoái, gấp gần 3 lần số lượng được áp dụng vào năm 2019.
Các công ty đa quốc gia, trong các cuộc thảo luận ngân sách hoạt động của họ, đang ngày càng nói nhiều hơn về các vấn đề như chuyển dịch về nước mình (re-shoring), chuyển dịch về gần nước mình (near-shoring), chuyển dịch về các nước thân hữu (friend-shoring) và phi toàn cầu hóa (deglobalization).
CHIẾN TRANH LẠNH LẦN 2?
Vậy có phải chúng ta đang ở giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh lần 2? Khi các động lực chính cũng tương tự – đó là sự cạnh tranh về ý thức hệ và cấu trúc nền kinh tế giữa hai siêu cường. Trong Chiến tranh Lạnh là Mỹ và Liên Xô, bây giờ là Mỹ và Trung Quốc. Nhưng võ đài nơi các thế lực này thi thố về cơ bản là khác nhau xét từ nhiều khía cạnh.
Trước hết, mức độ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia hiện nay đã cao hơn nhiều do các nền kinh tế đã hội nhập nhiều hơn vào thị trường siêu toàn cầu thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu phức tạp. Thương mại toàn cầu trên GDP hiện là 60% so với 24% trong Chiến tranh Lạnh lần 1. Điều này có thể sẽ làm tăng tổn thất do phân mảng.
Ngoài ra còn có sự không chắc chắn rõ ràng trong việc xác định quốc gia nào chọn liên kết với khối nào. Những dao động về hệ tư tưởng của giới cầm quyền chính trị bên trong mỗi quốc gia đã gia tăng so với thời kỳ Chiến tranh Lạnh lần 1 và gây khó khăn cho việc xác định lòng trung thành của 1 quốc gia với 1 khối nào đó. Sự không chắc chắn rõ ràng này cũng làm tăng thêm tổn thất - (H.4).
Mặt khác, các quốc gia khả năng cao là không liên kết hiện có sức nặng kinh tế lớn hơn về mặt GDP, thương mại và dân số (so với thời Chiến tranh Lạnh lần 1 - ND). Trong giai đoạn hiện nay để phân tích xác định mô hình hai khối với giả định dựa trên cách bỏ phiếu của các quốc gia tại Liên Hợp Quốc, thì khối phương Tây chủ yếu bao gồm Mỹ và Châu Âu, Trung Quốc và Nga ở khối phương Đông. Các quốc gia còn lại được xem như là "không liên kết." Năm 1950, khối phương Tây và phương Đông cùng nhau chiếm khoảng 85% GDP toàn cầu. Hai khối mà chúng ta giả định có ngày hôm nay chỉ còn chiếm khoảng 70% GDP toàn cầu và chỉ chiếm 1/3 dân số thế giới. Và các khối này lại còn phải cạnh tranh với những đối thủ không liên kết mới nổi lên - (H.5).
Với sự hội nhập kinh tế ngày càng tăng của các quốc gia không liên kết - năm 2022 hơn một nửa giao dịch thương mại toàn cầu có sự tham gia của họ - các quốc gia này có thể đóng vai trò là “người kết nối” giữa các đối thủ. Họ có thể hưởng lợi trực tiếp từ sự chuyển hướng thương mại và đầu tư trong một nền kinh tế toàn cầu đang rạn nứt và giảm bớt tác động tiêu cực của sự phân mảnh trong thương mại, do đó giảm bớt tổn thất.
ĐƯỜNG ĐỨT GÃY NGÀY CÀNG TĂNG: CHỨNG CỨ CỦA PHÂN MẢNG
Tiếp theo chúng ta hãy xem xét chứng cứ của sự phân mảng. Như các bạn thấy, có những dấu hiệu việc các đường đứt gãy đang gia tăng.
Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh lần 1, chúng ta không thấy rõ nét quá trình phi toàn cầu hóa vì tỷ trọng thương mại toàn cầu trên GDP thế giới vẫn tương đối ổn định. Nhưng chúng ta đang bắt đầu thấy những dấu hiệu phân mảng với những thay đổi đáng kể trong quan hệ thương mại song phương cơ bản.
Trong khi tốc độ tăng trưởng thương mại ở khắp mọi nơi đã chậm lại sau khi xảy ra cuộc chiến ở Ucraina thì tốc độ tăng trưởng thương mại giữa các khối không tương đồng về chính trị còn chậm lại nhiều hơn. Cụ thể, tăng trưởng thương mại nội khối đã giảm xuống 1,7% từ mức 2,2% trước chiến tranh. Trong khi tăng trưởng thương mại giữa các khối đã giảm từ 3% trước chiến tranh xuống còn khoảng -1,9%. Tổng hợp lại, hai điều này tạo ra mức tăng trưởng thương mại nội khối cao hơn 3,8% so với giữa các khối - (H.6).
Điều quan trọng là bức tranh này không chỉ đặc trưng với giao dịch thương mại trong các lĩnh vực hàng hoá chiến lược, là nơi các nhà hoạch định chính sách có nhiều khả năng nhắm các biện pháp can thiệp tới nhất và những biện pháp như vậy có thể giúp các quốc gia giảm bớt rủi ro. Hiện nó cũng là đặc trưng có cho giao thương thương mại các sản phẩm không mang tính chiến lược.
Cũng có những dấu hiệu rõ ràng về sự phân mảng trong đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên thế giới theo đường ranh địa chính trị. Kể từ khi bắt đầu chiến tranh ở Ucraina, các dự án FDI các khối đầu tư vào nhau được công bố đã giảm nhiều hơn đầu tư nội khối, trong khi FDI vào các nước không liên kết lại tăng mạnh. Chẳng hạn trong quý 3 năm 2023, gần 40% dự án FDI được công bố đều ở các quốc gia không liên kết này.
Điều này xảy ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng trở lại trong quan hệ thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, các mối liên hệ trực tiếp giữa hai nước đang lần lượt bị cắt đứt.
Trung Quốc không còn là đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ và tỷ trọng nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc đã giảm gần 10% trong 5 năm: từ 22% năm 2018 xuống còn 13% trong nửa đầu năm 2023. Các rào cản thương mại, được áp đặt kể từ khi bắt đầu cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc vào năm 2018, đã làm giảm đáng kể việc nhập khẩu các sản phẩm Trung Quốc bị áp thuế - (H.7).
Nhưng có bằng chứng chỉ ra rằng các liên kết trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc chỉ đơn giản là đang được thay thế bằng các liên kết gián tiếp. Các quốc gia hưởng lợi nhiều nhất nhờ tăng thị phần nhập khẩu vào Mỹ - như Mexico và Việt Nam - cũng hưởng lợi nhiều hơn từ thị phần xuất khẩu của Trung Quốc. Các quốc gia đó cũng là những nước nhận được dòng FDI lớn từ Trung Quốc - (H.8.)
Ngày càng có nhiều bằng chứng riêng rẽ về một nhóm các quốc gia “kết nối” có vai trò độc đáo đang hưởng lợi từ chiến lược “giảm thiểu rủi ro” của Mỹ từ phía Trung Quốc. Vai trò độc đáo này có được nhờ các yếu tố như vị trí địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên và các hiệp định thương mại tự do với cả hai bên.
Ví dụ, các nhà sản xuất điện tử lớn đã tăng tốc chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam do thuế quan của Mỹ đối với hàng hóa Trung Quốc tăng. Tuy nhiên Việt Nam nhập khẩu hầu hết đầu vào từ Trung Quốc rồi xuất khẩu phần lớn sang Mỹ.
Trong khi đó, Mexico đã vượt qua Trung Quốc để trở thành nước xuất khẩu hàng hóa lớn nhất sang Mỹ vào năm 2023. Nhưng nhiều nhà sản xuất mở nhà máy ở Mexico lại là các công ty Trung Quốc, nhắm vào thị trường Mỹ. Theo Hiệp hội các khu công nghiệp tư nhân Mexico, 1/5 doanh nghiệp thành lập mới của nước này trong hai năm tới sẽ là của Trung Quốc.
Những bằng chứng riêng rẽ này - bên cạnh những mối tương quan trong dữ liệu - chứng minh rằng đường đi của chuỗi cung ứng chỉ đơn giản bị kéo dài ra (ND: chứ không đứt gãy). Điều này được khẳng định bởi một nghiên cứu gần đây của BIS, khi kiểm tra dữ liệu từ hơn 25.000 công ty và phát hiện ra rằng chuỗi cung ứng đã được kéo dài hơn trong hai năm qua, đặc biệt là những chuỗi liên quan đến các nhà cung cấp Trung Quốc với khách hàng Mỹ - (H.9).
Tóm lại, sự phân mảng đã trở thành hiện thực khi sự liên kết địa chính trị đang định hình lại các dòng chảy thương mại và đầu tư. Quá trình ấy chắc là sẽ tiếp tục diễn ra. Nhưng, bất chấp những nỗ lực cùng muốn cắt đứt quan hệ của hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, hiện vẫn chưa rõ những nỗ lực ấy sẽ hiệu quả đến đâu trong một nền kinh tế toàn cầu đã hội nhập và kết nối sâu sắc.
CÁC TỔN THẤT KINH TẾ CỦA VIỆC PHÂN MẢNG
Nếu sự phân mảng ngày càng sâu sắc thì tổn thất kinh tế sẽ là bao nhiêu? Và những tổn thất đó sẽ được phân bổ như thế nào?
Thương mại là kênh chính mà qua đó sự phân mảng có thể định hình lại nền kinh tế toàn cầu, việc áp đặt các rào cản thương mại sẽ làm giảm hiệu quả đạt được từ chuyên môn hóa, hạn chế hiệu quả kinh tế nhờ quy mô do thị trường nhỏ hơn và giảm áp lực cạnh tranh - (H.10).
Năng lực của thương mại trong việc tạo dựng khuyến khích tái phân bổ tài nguyên trong nội bộ ngành và qua đó tăng năng suất sẽ bị hạn chế. Suy giảm thương mại cũng có nghĩa là việc truyền bá kiến thức, một lợi ích chính của hội nhập, cũng sẽ ít hơn. Và điều này (truyền bá kiến thức) cũng có thể bị giảm đi do sự phân mảng của đầu tư trực tiếp xuyên biên giới.
Sự phân tán của các dòng vốn sẽ hạn chế quá trình tích lũy tư bản - do FDI thấp hơn - và ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn vốn, giá tài sản và hệ thống thanh toán quốc tế, gây rủi ro bất ổn định tài chính vĩ mô và có khả năng dẫn đến bất ổn kinh tế.
Các ước tính về tổn thất kinh tế của việc phân mảng rất khác nhau và rất không chắc chắn, rõ ràng. Những tính toán gần đây được thực hiện tại IMF cho thấy những tổn thất này có thể rất lớn và đè nặng không tương xứng lên các nước đang phát triển.
Nếu nền kinh tế toàn cầu bị chia thành hai khối dựa trên tiêu chí các cuộc bỏ phiếu của Liên hợp quốc về Nghị quyết Ucraina năm 2022 và nếu thương mại giữa hai khối bị loại bỏ, thiệt hại toàn cầu ước tính vào khoảng 2,5% GDP. Nhưng tùy thuộc vào khả năng tự điều chỉnh (thích nghi) của mỗi nền kinh tế, tổn thất có thể lên tới 7% GDP. Ở cấp độ quốc gia, thiệt hại đặc biệt lớn đối với các nền kinh tế có thu nhập thấp và thị trường mới nổi - (H.11).
Sự phân mảng FDI trong một thế giới được chia thành hai khối xoay quanh Mỹ và Trung Quốc – và một số quốc gia không liên kết – có thể dẫn đến tổn thất về lâu dài khoảng 2% GDP toàn cầu.
Giống như trong trường hợp thương mại, tổn thất sẽ lớn hơn đối với các khu vực kém phát triển hơn - vốn phụ thuộc nhiều hơn vào dòng vốn từ khối đối lập.
Nhưng rất nhiều điều sẽ phụ thuộc vào việc phân mảng thương mại và đầu tư diễn ra chính xác như thế nào. Nếu tồn tại một số nền kinh tế vẫn không liên kết và tiếp tục tham gia (giao thương - ND) với tất cả các đối tác, họ có thể được hưởng lợi từ sự chuyển hướng thương mại và đầu tư.
Mô phỏng của chúng tôi cho thấy rằng nếu chỉ thương mại giữa khối Mỹ-EU và khối Trung Quốc-Nga bị gián đoạn, thì các nền kinh tế không liên kết còn lại nói chung sẽ hưởng được một số lợi ích - (H.12).
Các nước Mỹ Latinh đang ở vị trí thuận lợi để hưởng lợi trong kịch bản như vậy. Ví dụ như sự gần gũi về địa lý của Mexico với Mỹ có thể thúc đẩy lĩnh vực sản xuất của nước này, trong khi các nhà xuất khẩu nguyên liệu của Nam Mỹ có thể tăng thêm thị phần.
Nhưng nếu sự phân mảng trở nên tồi tệ hơn, ngay cả những người được hưởng lợi từ sự phân mảng ở dạng nhẹ cũng có thể chỉ dành được một phần lớn hơn của một chiếc bánh nhỏ hơn nhiều trong một kịch bản cực đoan. Nói tóm lại, mọi người đều có thể mất.
Sự phân mảng cũng sẽ cản trở những nỗ lực của chúng ta nhằm giải quyết những thách thức toàn cầu khác đòi hỏi sự hợp tác quốc tế. Phạm vi của những thách thức đó - từ biến đổi khí hậu đến Trí tuệ Nhân tạo (AI) - là vô cùng rộng lớn.
Phân tích gần đây của IMF cho thấy rằng sự phân mảng trong kinh doanh thương mại các mặt hàng khoáng sản quan trọng cho quá trình chuyển đổi xanh – chẳng hạn như đồng, niken, coban và lithium – sẽ khiến quá trình chuyển đổi năng lượng xanh trở nên đắt đỏ hơn. Bởi những khoáng sản này tập trung về mặt địa lý và không dễ dàng thay thế, việc gián đoạn thương mại sẽ dẫn đến sự biến động mạnh về giá, hạn chế đầu tư vào năng lượng tái tạo và sản xuất xe điện.
CÁC NHÀ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÓ THỂ LÀM GÌ ĐỂ NGĂN CHẶN KỊCH BẢN KINH TẾ TỒI TỆ TRONG CHIẾN TRANH LẠNH TOÀN DIỆN LẦN 2?
Ở thời điểm bước ngoặt này, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với bài toán khó khăn: làm sao cân bằng giữa việc giảm thiểu tổn thất bởi phân mảng và tối đa hóa an ninh cùng sự ổn định và bền vững. Cần có những cách tiếp cận thực tế nhằm duy trì lợi ích của thương mại tự do ở mức độ có thể và bảo vệ quá trình giải quyết các thách thức toàn cầu đang diễn ra – đồng thời giảm thiểu những méo mó – là cần thiết.
Tất nhiên, giải pháp tốt nhất đầu tiên là tránh sự phân mảng. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, điều này có thể khó đạt được.
Nếu không có kịch bản tốt nhất, chúng ta phải nỗ lực tránh kịch bản xấu nhất và bảo vệ sự hợp tác kinh tế trong một thế giới bị phân mảng nhiều hơn. Ba nguyên tắc hữu ích có thể áp dụng là - (H.13):
1). Thứ nhất: Tìm kiếm phương pháp tiếp cận đa phương ít nhất là đối với các lĩnh vực có lợi ích chung. Ví dụ, một thỏa thuận tạo hành lang xanh có thể đảm bảo cho việc tự do lưu thông toàn cầu các loại khoáng sản quan trọng cần thiết cho quá trình chuyển đổi năng lượng sạch.
Các thỏa thuận tương tự đối với các mặt hàng thực phẩm thiết yếu và vật tư y tế nhằm đảm bảo lưu thông thông suốt xuyên biên giới với số lượng tối thiểu nào đó là cần thiết trong một thế giới ngày càng dễ bị sốc. Những thỏa thuận như vậy sẽ bảo vệ các mục tiêu toàn cầu trong việc ngăn chặn sự tàn phá của biến đổi khí hậu, mất an ninh lương thực và thảm họa nhân đạo liên quan đến đại dịch.
2). Thứ hai: Nếu việc điều chỉnh lại dòng chảy thương mại và FDI được coi là cần thiết để giảm thiểu rủi ro và đa dạng hóa, thì cách tiếp cận đa phương và không phân biệt đối xử có thể giúp các quốc gia tăng cường hội nhập, đa dạng hóa và giảm thiểu rủi ro đe doạ sự ổn định và bền vững.
Các nhà hoạch định chính sách nên xác định một cách rộng rãi nhóm các đối tác và đồng minh cần nhắm tới nhằm tăng cường quan hệ đối tác kinh tế. Các hiệp định đa phương phù hợp với WTO - chẳng hạn như các hiệp định thương mại khu vực và các sáng kiến tuyên bố chung - mặc dù rõ ràng không phải là giải pháp tối ưu nhưng có thể mang lại một số lợi ích. Lợi ích đó bao gồm tăng hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, khả năng tiếp cận thị trường lớn hơn và đa dạng hoá các nhà cung cấp, cùng nhiều yếu tố khác. Bằng cách cập nhật các quy tắc và duy trì chính sách mở, các thỏa thuận như vậy cho phép các đối tác mới tham gia khi họ sẵn sàng và có thể cam kết tuân thủ các quy tắc và chuẩn mực của thỏa thuận.
Các ví dụ gần đây lầ các hiệp định thương mại khu vực (RTA) bao gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Khu vực Thương mại Tự do Lục địa Châu Phi (AfCFTA). Một số sáng kiến trong tuyên bố chung hiện đang được tiến hành, bao gồm thương mại điện tử, khuyến khích đầu tư và quy định trong nước về dịch vụ. Vào tháng 12 năm 2021, 70 thành viên WTO đã nhất trí về một thỏa thuận đa phương dựa trên WTO về quy định dịch vụ trong nước.
Các nhà hoạch định chính sách chỉ nên nhắm sự can thiệp hay trợ giúp vào một nhóm hẹp các sản phẩm và công nghệ, đảm bảo sự can thiệp chỉ vì lý do an ninh kinh tế. Trước khi quyết định đưa sản xuất về nước, họ phải xem xét cẩn thận liệu có thực sự thiếu nhà cung cấp từ các khu vực ít rủi ro hơn hay không và đánh giá khách quan về tổn thất kinh tế và xã hội của sự gián đoạn nguồn cung. Điều này đặc biệt đúng với các công nghệ được sử dụng rộng rãi, chẳng hạn như chất bán dẫn.
3). Thứ ba: Hạn chế các hành động chính sách đơn phương - chẳng hạn như chính sách ngành - nhằm giải quyết các tác động bên ngoài và các biến dạng thị trường và cần có thời hạn. Cầm giới hạn mục tiêu vào việc khắc phục những thất bại của thị trường trong khi vẫn phải duy trì được năng lực có thể phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả nhất của thị trường.
Điều quan trọng là phải đánh giá cẩn trọng các chính sách ngành, cả về hiệu quả của chúng trong việc đạt được các kết quả đã nêu lẫn tổn thất kinh tế liên quan, bao gồm cả những tác động xuyên biên giới.
Ở trong nước, các chính sách ngành có thể khó hạn chế hoặc thu hồi do hiệu quả thì tập trung mà chi phí thì phân tán.
Trên bình diện quốc tế, những chính sách như vậy có thể dẫn đến sự trả đũa, làm sâu sắc thêm sự chia rẽ. Theo ước tính gần đây của IMF, nếu Trung Quốc áp dụng trợ giá, khả năng EU áp dụng biện pháp hạn chế thương mại trong vòng 12 tháng để đáp trả khoản trợ giá là 90%.
Một cơ chế đối thoại liên chính phủ - hoặc một khuôn khổ tham vấn - về các chính sách ngành có thể giúp cải thiện việc chia sẻ dữ liệu và thông tin cũng như xác định tác động của các chính sách, bao gồm cả những hậu quả xuyên biên giới không lường trước được. Theo thời gian, các đường dây liên lạc ổn định có thể giúp phát triển các quy tắc và chuẩn mực quốc tế về việc sử dụng và thiết kế phù hợp các chính sách ngành, giúp các doanh nghiệp dễ dàng thích nghi với môi trường mới hơn.
Dựa trên mỗi nguyên tắc trong số ba nguyên tắc này, chúng ta có thể xem xét các diễn biến từ Chiến tranh Lạnh vừa qua. Trong suốt thời kỳ đó, Mỹ và Liên Xô đã ký nhiều thỏa thuận nhằm tránh thảm họa hạt nhân. Cả hai siêu cường đều tán thành học thuyết về sự đảm bảo hủy diệt lẫn nhau (doctrine of mutually assured destruction), biết rằng một cuộc tấn công đơn phương của một bên cuối cùng sẽ dẫn đến sự hủy diệt toàn bộ các bên.
Nếu chúng ta bước vào Chiến tranh Lạnh 2, biết rõ cái giá phải trả, chúng ta có thể không nhìn thấy sự hủy diệt kinh tế được đảm bảo cho cả hai bên. Nhưng chúng ta có thể thấy lợi ích thu được từ thương mại mở sẽ bị mất đi. Bất luận là gì các nhà hoạch định chính sách không được bỏ qua những lợi ích đó. Vì lợi ích tốt nhất của họ - và của tất cả mọi người - là ủng hộ mạnh mẽ hệ thống thương mại đa phương dựa trên quy tắc và các tổ chức hỗ trợ nó.
Tất nhiên, hội nhập kinh tế không mang lại lợi ích cho tất cả mọi người – thừa nhận điều này là rất quan trọng để hiểu được những động lực thúc đẩy những thay đổi toàn cầu hướng về giải quyết các vấn đề nội bộ và các chính sách trong nước phải điều chỉnh để mở rộng vệc lan toả lợi ích. Nhưng chính nó đã giúp hàng tỷ người trở nên giàu có hơn, khỏe mạnh hơn và được giáo dục tốt hơn - kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, quy mô nền kinh tế toàn cầu tăng gần gấp ba và gần 1,5 tỷ người đã thoát khỏi cảnh nghèo cùng cực.
KẾT LUẬN
Tôi xin phép kết luận.
Mặc dù không có dấu hiệu nào cho thấy sự rút lui trên diện rộng khỏi toàn cầu hóa, nhưng các đường đứt gãy đang nổi lên khi sự phân mảng địa kinh tế ngày càng trở thành hiện thực. Nếu sự phân mảng trở nên sâu sắc, chúng ta có thể rơi vào một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.
Chi phí kinh tế của Chiến tranh Lạnh lần thứ hai có thể rất lớn. Thế giới đã trở nên hội nhập hơn nhiều và chúng ta phải đối mặt với vô số thách thức chung chưa từng có mà một thế giới phân mảng không thể giải quyết được.
Tuy nhiên, ngay cả trong thực tế địa chính trị mới này, các nhà hoạch định chính sách vẫn có thể tìm kiếm các giải pháp giảm thiểu tổn thất gây ra bởi phân mảng. Cần tập trung vào các cách tiếp cận thực tế nhằm bảo tồn lợi ích của thương mại tự do ở mức độ có thể, bảo vệ việc giải quyết các thách thức toàn cầu, đồng thời đạt được các mục tiêu trong nước về an ninh và tính ổn định bền vững.
Việc duy trì các đường dây liên lạc cởi mở, như Mỹ, Trung Quốc và EU đang làm, có thể giúp ngăn chặn những tổn thất tồi tệ nhất xảy ra. Các quốc gia không liên kết, chủ yếu là các quốc gia mới nổi và đang phát triển, có thể triển khai sức mạnh kinh tế và ngoại giao của mình để duy trì thế giới hội nhập. Suy cho cùng, nhiều quốc gia mới nổi và đang phát triển phải đối mặt với những tổn thất vô cùng lớn từ một thế giới bị phân mảng, và mặc dù một số nước được hưởng lợi trong giai đoạn đầu của sự phân mảng, nhưng tất cả đều thua trong một cuộc Chiến tranh Lạnh toàn diện.
Khi chúng ta thảo luận câu hỏi “bước ngoặt” này trong vài ngày tới, tôi kêu gọi tất cả chúng ta suy nghĩ về việc chúng ta có thể giúp đạt được những giải pháp này như thế nào - thông qua hoạt động nghiên cứu và cộng tác của chúng ta. Điều này sẽ rất quan trọng để bảo tồn những gì chúng ta đã đạt được và đối mặt với những thách thức toàn cầu phía trước.
Xin cảm ơn.
Link:
https://www.imf.org/.../sp121123-cold-war-ii-preserving...
———
P.S. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN
Gita Gopinath, không chỉ là phó Giám đốc điều hành thứ nhất của IMF mà còn là một trong những nhà kinh tế có tư duy mở và rành mạch. Trước đây khi cô còn là Kinh tế trưởng của IMF tôi có đọc một số bài của cô và khá ấn tượng về chuyên môn của người phụ nữ Mỹ sinh ra ở Ấn Độ này.
Phó GĐ điều hành thứ nhất của IMF là chức vụ mang tính chính trị hơn. Quan điểm của cô chắc chắn mang tính tuyên ngôn và đại diện cho IMF.
Bài phát biểu của cô tại Đại hội Thế giới lần thứ XX của Hiệp hội Kinh tế Quốc tế mới đây chạm vào chủ đề rất nóng, toàn cầu nhưng đang có ý nghĩa với mọi quốc gia và rất nhiều doanh nghiệp: Sự phân mảng của nền kinh tế thế giới.
Đề tài này tôi cũng quan tâm và đã từng viết.
Một số nhận định của cô rất thú vị, đó là:
- Kinh tế thế giới đang phân mảng: do sự khác biệt trong ý thức hệ, thể chế chính trị và cơ cấu kinh tế, kinh tế toàn cầu đã bị phân mảng thành hai khối đối địch là Mỹ+EU (Mỹ là hạt nhân), Trung+Nga (Trung là hạt nhân) và nhóm không liên kết. Điều này đã chính thức dẫn đến chiến tranh lạnh lần 2. Thế giới đã quen sống trong hội nhập 30 năm và sự phân mảng này sẽ gây nhiều tổn thất chung cho nền kinh tế thế giới.
Quá trình phân mảng này là không thể đảo ngược. Do vậy chúng ta cần học cách sống chung với nó để duy trì lợi ích của mở cửa và giảm thiểu thiệt hại của phân mảng.
-
Nhóm không liên kết: được các bên chấp nhận đóng vai trò “cầu nối” để duy thuỗi cung ứng hình thành trước đây và làm nhẹ các tổn thất của phân mảng.
-
Để làm được điều ấy các chính trị gia cần duy trì sự cởi mở, thực tế và thực dụng để cân bằng giữa việc giảm thiểu tổn thất bởi phân mảng và tối đa hóa an ninh cùng sự ổn định và bền vững trên cơ sở đối thoại tránh dẫn đến các tổn thất kinh tế cho tất cả các bên, dù mức độ khác nhau.
Có vẻ như cô Gita Gopinath cho rằng sự tốn tại của 2 khối và bên không liên kết là lâu dài, bên không liên kết đủ mạnh để không phải ngả theo bên nào nhằm giữ nguyên vai trò “cầu nối” và các chính trị gia hai khối đủ thực dụng và tỉnh táo để chấp nhận điều ấy nhằm tránh hy sinh các lợi ích kinh tế rõ ràng: lợi ích kinh tế đặt cao hơn tham vọng chính trị.
Tuy nhiên cá nhân tôi không lạc quan được như cô Gita Gopinath.
- Bên không liên kết sẽ chỉ giữ được vai trò của mình nếu như họ đủ mạnh, đủ liên kết để duy trì tính không liên kết vốn lỏng lẻo dễ bị mua chuộc và bẻ gãy.
Khả năng cao Mỹ+EU chỉ nhận vai trò cầu nối của các nước không liên kết trong ngắn hạn không dài hạn. Người Mỹ biết các giao dịch “nối dài” không? Chắc chắn biết. Chỉ có điều trong ngắn hạn và tạm thời họ nhắm mắt làm ngơ tránh sốc cho nền kinh tế của họ và đồng minh. Nhưng đến lúc chuẩn bị nguồn thay thế xong, họ có cho đối thủ đi luồn sau lưng không? Tôi nghĩ là không nếu đó không là lợi ích chiến lược chính họ cần hay là sống còn của đối thủ.
- Quá trình phân mảng mới chỉ bắt đầu. Cô Gita Gopinath chỉ ra Trung Quốc mới là “chủ trò” một khối nhưng chưa vẽ ra xung đột Trung-Mỹ trực diện diễn ra chính xác như thế nào? Chiến tranh lạnh lần 2 sẽ ra sao?
Chắc chắn khác lần 1. Hãy nhìn vào Nga: Sự cắt đứt quan hệ lần này của khối Mỹ+EU với Nga là toàn diện, sâu sắc và lâu dài khác hẳn trước đây. Thời Chiến tranh Lạnh 1, phương Tây, một mặt cấm vận một phần giao thương tiền tệ kinh tế thương mại nhiều lĩnh vực nhưng giao thương các mặt hàng chiến lược vẫn diễn ra, mặt khác luôn mở cửa tạo cơ hội để người của phe XHCN chạy sang hay sang để chứng kiến sự ưu việt của mình. Người thả bức màn sắt là phe XHCN.
Nay một mặt giúp Ucraina chiến đấu tiêu hao sức mạnh quân sự, bao vây trừng phạt kinh tế-thương mại-tiền tệ Nga, mặt khác Mỹ+EU lập rào cản, thu hẹp cánh cửa và đối xử khá phân biệt với người dân Nga. Tác động, khuyến khích doanh nghiệp các loại rút khỏi Nga. Phong toả tài khoản. Cắt đứt giao thương thương mại. Hạn chế cả với hàng chiến lược. Nga không thả bức màn nào. Bức màn khá cực đoan được dựng lên bởi khối Mỹ-EU.
Không hiểu vì sao thế?
Nếu tranh chấp với Trung Quốc xảy ra hoàn toàn có thể có kịch bản tương tự với Nga. Khi ấy diễn biến sẽ thế nào? Và hậu quả sẽ ra sao?
Nên sự phân mảng sâu sắc hơn, rộng hơn cô nghĩ.
- Trật tự thế giới một thời gian dài được thiết lập và vận hành bởi Ngũ đại gia đình Mỹ-Liên Xô (Nga)-Anh-Pháp-Trung Quốc trong đó Mỹ đóng vai trò ông Trùm của các trùm. Trong một thời gian dài đó là yếu tố tạo nên sự hình thành và tồn tại song song của các hệ thống cân bằng nhau (cân bằng chiến lược).
Trật tự ấy có 6 trụ cột:
a. Chính trị - lập pháp là LHQ. Dù đại gia đình nào mồm cũng kêu gọi dân chủ nhưng ở cái LHQ đó chả có dân chủ khỉ gì hết: Đại hội đồng LHQ chỉ là diễn đàn, chả quyết được gì nếu thiếu triện Approved! của HĐBA. Mà mỗi thành viên HĐBA đều có quyền phủ quyết tuốt;
b. Tài phán là một số Toà, Trọng tài. Nhưng Luật Vua thua Lệ Làng: Luật pháp quốc tế nằm dưới Luật quốc gia. Hết phim;
c. Kinh tế tài chính tiền tệ là WTO, WB và IMF với đồng USD là trụ cột;
d. Chia vùng lợi ích cốt lõi;
e. Tôn trọng lãnh thổ sau WW2;
f. Hành pháp đồng thời là bảo kê cho trật tự thế giới ấy là nhóm Ngũ đại gia đình độc quyền công khai sở hữu vũ khí hạt nhân.
Cùng thời gian, tiềm lực các gia đình thay đổi. Kẻ yếu đi người mạnh lên. Xuất hiện những đám mới. Cân bằng chiến lược không còn. Nhất là giai đọan 1990s đầu 2000.
Trật tự ấy bắt đầu không làm tất cả hài lòng.
Ông Trùm muốn quyền lực tuyệt đối hơn thâu tóm thiên hạ giữ số ông Trùm. Ai đó muốn xé số ông Trùm. Ai đó muốn giữ số má cũ. Ai đó muốn tạo số má mới. Ai đó muốn xoá bài làm lại. Chuyện này vẫn xảy ra thường trong lịch sử, giang hồ.
Sự xuất hiện những bức tường phân mảng là để dập tắt ý đồ xé số nhưng cũng tạo cơ hội cho không ít người muốn rung lắc trật tự thế giới hiện nay.
-
Lợi ích chính trị chính, cốt lõi, lâu dài ở đây là tham vọng quyền lực duy trì/lật đổ trật tự thế giới hiện hữu quá lớn. Lớn đến mức có thể gây lú làm khả năng cân bằng giữa giảm thiểu tổn thất bởi phân mảng và tối đa hóa an ninh trở nên rất mong manh… trừ khi đe dọa tồn vong kiểu vũ khí hạt nhân thì may ra. Để đạt tham vọng quyền lực các chính trị gia sẵn sàng bỏ qua lợi ích kinh tế quốc gia, người dân mình và các quốc gia khác dưới các chiêu bài “lợi ích an ninh quốc gia”. Bằng các bài tuyên truyền đẫm chất dân tuý, những lời kêu gọi đẫm nước mắt rúng động con tim và những biện pháp bẩn thỉu đẫm máu… họ sẽ thành công trong việc vận động người dân giúp họ đạt tham vọng. Khi ấy lời kêu gọi của cô Gita Gopinath về thực tế, thực dụng và tránh đổ vỡ sẽ chìm trong tiếng thét gào của đám chính trị gia đa chuẩn mực ấy thôi.
-
Trong những quốc gia được gọi tên ở trên, ngoài các ông trùm Mỹ Trung Nga, có hai ông “kết nối” là Việt Nam và Mexico cũng được nhắc nhiều.
Hãy xem lịch họ thăm hỏi nhau trước đó:
10/09/2023: ông Biden thăm Việt Nam;
17/10/2023: ông Putin thăm Trung Quốc;
15/11/2023: ông Tập thăm Mỹ;
12/12/2023: ông Tập thăm Việt Nam.
Có sợi dây liên hệ gì không? Trong ngoại giao quốc tế sự tình cờ rất ít.
Ông Tập đang đóng vai trò ngoại giao con thoi và chuyến thăm của ông Putin trước khi ông Tập đi Mỹ có mục tiêu của nó.
Người đứng đầu cả Mỹ và Trung đều lần lượt thăm Việt Nam trong 1 thời gian ngắn chắc cũng có lý của nó.
Gặp mặt trực tiếp nói được nhiều chuyện tế nhị lắm.
Và đằng sau những văn bản chung chung vô thưởng vô phạt được ký kết chắc sẽ có chỗ cho những thỏa thuận đặc biệt nào đó liên quan bài viết này mà không tiện nói ra. Không biết ông Tập có thuyết phục ông Biden hãy để đám không liên kết cầu nối tồn tại lâu dài không nhỉ?
- IMF là tổ chức chi phối bởi khối Mỹ-EU nhằm duy trì trật tự tiền tệ thế giới. Phát biểu của PTGĐ thứ nhất IMF có phải chăng là thông điệp thăm dò!
Chờ xem hồi sau sẽ thấy. Nhưng cơ hội thì rõ.
Vận động của các cường quốc cho thấy họ đang ủ mưu, đánh giá, phân tích, test các kịch bản khác nhau… chưa quyết! Hy vọng tổn thất chung sẽ không quá lớn./.